Cần phát hiện sớm loãng xương

  1. Bệnh loãng xương là gì?

Về hóa học, xương là một mô sống, chứa 30% chất hữu cơ và 70% chất vô cơ (muối canxi và phốt phát). Mặc dù xương có độ khoáng cao nhưng luôn đổi mới về thành phần các chất, luôn luôn có hiện tượng hủy và tạo xương trong cơ thể ở mọi thời điểm kể cả khi lớn tuổi. Các tính chất hình thái của xương tùy vào lứa tuổi, điều kiện dinh dưỡng, hoạt động cơ, ảnh hưởng của nội tiết tố.

Loãng xương là bệnh lý rối loạn cân bằng giữa hai quá trình hủy xương và tạo xương của cơ thể, trong khi tạo xương chậm hẳn do tuổi tác hoặc các yếu tố khác thì hủy xương lại diễn ra nhanh hơn khiến cho chất lượng xương giảm, xương trở nên mỏng, xốp, giòn và dễ gẫy.

Loãng xương là một bệnh lý âm thầm, bệnh nhân thường không có triệu chứng gì cho đến khi xuất hiện gãy xương, ảnh hưởng lớn tới chất lượng cuộc sống của số đông người có tuổi, đặc biệt là phụ nữ.

Loãng xương xuất hiện ở mọi lứa tuổi với nhiều nguyên nhân khác nhau, có khi là hậu quả của một số bệnh hoặc việc lạm dụng một số loại thuốc gốc glucorticoid nhưng phần lớn phụ thuộc vào quá trình lão hóa tự nhiên của cơ thể.

  1. Bệnh loãng xương có thường gặp không?

Ở Mỹ, có đến 1.3 triệu trường hợp gãy xương do loãng xương mỗi năm, cứ 3 phụ nữ lớn hơn 65 tuổi thì có 1 phụ nữ bị loãng xương ảnh hưởng tới cột sống.

Ở Pháp có đến 55.000 ca gãy cổ xương đùi trên 1 triệu phụ nữ bị loãng xương.

Hàng năm ước tính trên thế giới có 200 triệu người mắc bệnh loãng xương.

Ở Việt Nam, với một nền kinh tế đang phát triển, phần đông dân số là lao động phổ thông hoặc nông dân. Theo một nghiên cứu của viện Dinh dưỡng Quốc gia (Bộ Y tế), số lượng người mắc bệnh loãng xương ở Việt Nam đã lên tới 3 triệu người và 170 ngàn người trong số đó bị gãy xương do loãng xương.

Nhìn chung, số lượng phụ nữ mắc loãng xương ở Việt Nam cao hơn rất nhiều so với nam giới. Một phần là do sức khỏe và điều kiện sống của phụ nữ vẫn chưa được quan tâm đầy đủ, một phần cũng là do đặc điểm chung của phụ nữ Việt Nam là thấp bé nhẹ cân mà loãng xương thì tỉ lệ nghịch với chiều cao, cân nặng, chỉ số khối cơ thể BMI.

Hiện nay chi phí điều trị loãng xương lớn nhất là chi phí dành cho việc chữa trị gãy xương và xẹp lún đốt sống. Chi phí này được xếp tương đương với chi phí chữa bệnh nhồi máu cơ tim và đột quỵ, ngày càng có xu hướng gia tăng và trở thành gánh nặng cho y tế cộng đồng.

  1. Những trường hợp nào dễ bị loãng xương?

Những yếu tố không thể can thiệp: trẻ sinh ra nhẹ cân, tuổi, chiều cao, cân nặng, tiểu sử gãy xương, tiền sử gia đình có cha mẹ từng bị gãy xương, người da trắng…

Những yếu tố có thể can thiệp: hút thuốc, nhẹ cân, thiếu hormone, thiếu canxi, nghiện rượu bia và các chất kích thích, thiếu vận động thể lực, dùng corticoid kéo dài. Bệnh nhân đang điều trị các bệnh lý như suy thận mạn, cường giáp, viêm cột sống, các bệnh về khớp phải sử dụng thuốc kèo dài sẽ gây loãng xương.

Hiện nay có tình trạng lạm dụng corticoid khi bệnh nhân tự mua các thuốc như dexamethason hay prednisolon để uống chữa thấp khớp. Hoặc ngay cả một số thuốc Đông y cũng thêm thành phần corticoid vào dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng cho bệnh nhân.

  1. Hậu quả của loãng xương là gì?

Hậu quả của loãng xương là gãy xương: Gãy xương cột sống và gãy cổ xương đùi chiếm tỉ lệ cao nhất trong bệnh lý loãng xương, gây tàn tật và tử vong.

  1. Làm thế nào để chẩn đoán loãng xương?

5.1 Các phương pháp đo mật độ xương

Đo tỉ trọng khoáng của xương: phát hiện sớm sự thay đổi khối lượng xương bằng cách đo hấp thụ photon đơn, đo hấp thụ photon kép, đo hấp thụ tia X năng lượng kép hoặc đo tỷ trọng xương bằng chụp cắt lớp vi tính.

Thăm dò Xquang: đo tốc độ mất xương hàng năm, đánh giá sự thay đổi của quá trình này bằng cách định lượng những chỉ số trong máu và nước tiểu phản ứng quá trình tạo xương, quá trình hủy xương. Cộng với những thông số lâm sàng như chiều cao cân nặng và một số xét nghiệm sinh hóa chương trình cho phép ước tính tốc độ mất xương hàng năm của người bệnh.

Ngoài ra còn có một số phương pháp khác như sinh hóa lâm sàng, sinh thiết xương mào chậu, đồng vị phóng xạ, siêu âm, cộng hưởng từ…

5.2 Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán loãng xương: DEXA

DEXA: Dual Energy X-ray Absorptiometry – đo hấp thụ tia X kép

Về nguyên lý, DEXA sử dụng 2 nguồn tia X hướng vào vùng xương cần đo độ đậm như cột sống, cổ xương đùi và đo năng lượng của chùm tia đó khi nó ra khỏi cơ thể. Xương sẽ hấp thu một phần tia X, phần còn lại đi xuyên qua xương. Mật độ xương càng cao, tia X xuyên qua nó càng ít.

Vì đây là phương pháp có độ chính xác rất cao nên được gọi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán loãng xương.

Hình 1. Máy đo loãng xương theo phương pháp DEXA tại Bệnh viện Quốc tế Becamex

Chỉ số T-score: độ lệch chuẩn của mật độ xương người đo được so với mật độ xương ở lúc phát triển cao nhất (20-30 tuổi: Standard daviation SD)

T-score = (BMDi-pBMD)/SD

Trong đó:

  • pBMD: mật độ xương đỉnh của đối tượng được đo
  • pBMD: mật độ xương đỉnh của cộng đồng

Kết quả:

  • T-score>-1: bình thường
  • T-score từ -1 đến -2.5: giảm mật độ xương
  • <-2.5: loãng xương
  • <-2.5 có gãy xương: loãng xương nặng
  1. Những người nào nên đi đo mật độ xương?
  • Phụ nữ lớn hơn 65 tuổi và nam trên 70 tuổi
  • Tất cả những phụ nữ tiền mãn kinh, sau mãn kinh, nam giới trên 50 tuổi có các yếu tố sau: Phụ nữ mãn kinh hay đã cắt buồng trứng trước 40 tuổi, sau thay khớp một thời gian để đánh giá tiên lượng, những bệnh nhân đau xương, đau lưng cấp và mạn tính, biến dạng cột sống như gù, vẹo, gãy xương.

Tại Bệnh viện Quốc tế Becamex, các bệnh nhân nêu trên có thể yêu cầu bác sĩ cho đi đo mật độ xương bằng phương pháp DEXA để phát hiện sớm loãng xương.

  1. Làm gì để phòng ngừa loãng xương?

Thành phần ăn cần đủ đạm mà không dư thừa, hạn chế chất béo, tăng cường hoạt động thể lực hợp lý, phơi nắng đủ…

Có thể dùng thuốc canxi để bổ sung nhưng do ruột non không thể hấp thu quá nhiều canxi trong một lần nên cần chia nhỏ liều để uống. Tốt nhất nên uống vào sáng hay trưa, không nên uống tối vì dễ lắng đọng canxi ở thận gây sỏi thận và uống nhiều nước.

Ngoài ra cần ăn thêm các thực phẩm giàu vitamin D giúp cơ thể hấp thu được canxi tốt hơn và tập thể dục phù hợp để tăng tính mềm dẻo của cơ bắp, giảm nguy cơ ngã gãy xương.

  1. Điều trị loãng xương như thế nào?

Điều trị loãng xương chủ yếu là để giảm gãy xương, giảm nguy cơ tử vong liên quan đến gãy xương.

Các phương pháp điều trị không dùng thuốc: tăng cường sữa và các sản phẩm từ sữa, ăn nhiều rau xanh, đậu nành, các loại hạt, ngũ cốc.

Tập thể dục hợp lý, vừa sức, hạn chế rượu bia, thuốc lá và các chất khác.

Thuốc giảm tiêu xương thuộc nhóm Biphosphonate được cho là là nhóm thuốc hàng đầu điều trị và phòng chống loãng xương, chống gãy xương cho phụ nữ sau mãn kinh. Tuy nhiên nhóm thuốc này sẽ gây ra nhiều tác dụng phụ như gây kích ứng, viêm dạ dày, khó nuốt, trào ngược dạ dày thực quản.

Có các chọn lựa: 1 tuần một viên, 1 tháng một viên, 3 tháng một viên. Một số trường hợp có thể dùng thuốc qua đường truyền tĩnh mạch 1 năm/1 lần.

Điều trị loãng xương tốt nhất là dùng thuốc kết hợp với bổ sung canxi và vitamin D hàng ngày theo khuyến cáo, phơi nắng, tập thể dục hợp lý đúng cách, kiêng rượu bia và chất kích thích.

Bài viết liên quan